|
Từ điển Tiếng Việt (Vietnamese Dictionary)
Lê Lợi
(ất sửu 1385 - Quý sửu 1433)
Vua khai sáng nhà Lê, lãnh tụ khởi nghĩa chống quân Minh
Tằng tổ của ông là Lê Hối, nội tổ là Lê Đinh, quê ở thông Như án, huyện Lương Giang (nay là phủ Thiệu Hóa). tỉnh Thanh Hóa, sau dời về ở vùng Lam Sơn
Ông là con út của Lê Khoáng và Trịnh Thị Ngọc hương (anh lớn của ông tên Học, thứ là Trừ). Nối nghiệp nhà làm chúa trại Lam Sơn, gặp khi quân Minh xâm chiếm đất nước, ông nuôi chí lớn đánh đuổi xâm lăng. Quan nhà Minh nghe tiếng ông, dụ cho làm quan, ông không chịu khuất, thường:" Làm trai nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người". Ông dấu mình ở chốn sơn lâm, lo kết nạp hào kiệt, chiêu tập quân sĩ, đến cuối năm Đinh dậu 1417 thì nêu cao cờ nghĩa, xưng Bình Định vương. Dưới cờ giải phóng do ông lãnh đạo, lần hồi đông đủ mặt anh hào góp sức: Đinh Lễ, Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Nguyễn Thân tức Lê Lai, Bùi Quốc Hưng, Trịng Khả, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi.
Năm Mậu tuất 1418, thắng trận đầu tại Lạc Thủy, khiến tướng Minh là Mã Kì khiếp đảm. Chúng điên cuồng tung quân bao vây nghĩa quân tại Chí Linh. Thế nguy, nhờ có Lê Lai đổi áo chịu chết thay ông, để ông lánh thân về Lư Sơn (ở phía Tây châu Hoan, Hóa, tỉnh Thanh Hoá)
Năm Canh tí 1420, tháng 10 ông dùng kế phục binh chiến thắng quân Lý Bân, Phương Chính tại Chi Lăng, rồi tiến công ở sách Ba Lẫm, thuộc Lỗi Giang, trong giai đoạn này thu dùng được Nguyễn Trãi làm tham mưu xuất sắc
Năm Tân sửu 1421, phá quân Trần Trí và đánh đuổi được quân Lào tiếp tay với quân Minh
Năm Giáp thìn 1424, chiến dịch Bồ Liệp, chém tướng giặc là Trần Trung, trận Trà Lân phá vỡ quân của Sư Hữu, giết tướng Trương Bản
Năm Bính ngọ 1426, đánh lấy đuợc Nghệ An, tiến quân ra Đông Đô (Hà Nội). Trải các trận ở Ninh Kiều, ứng Thiên,Ninh Giang,quân oai khắp nơi. Sau đó lại triệt hạ được viện binh của quân Minh từ Vân Nam kéo sang, tại cầu Xa Luộc, rồi đánh bại luôn đại quân của Vương Thông nơi Cổ Lãm và Tụy Động
Năm Đinh vị 1427, đóng quân ở Bồ Đề uy hiếp thành Đông Quan, dồn toàn lực luợng đánh một trận để đời tại Chi Lăng, chém chết Liễu Thăng tại gò Đảo Mả, bắt sống hai tướng Hoàng Phúc và Thôi Tụ tại Xương Giang, giết tướng Lương Minh, khiến Lý Khánh tự tử, đuổi được Mộc Thạnh, trốn chạy về nước. Kết quả: Tổng tư lệnh quân Minh là Vương Thông phải viết thư cầu hòa, rồi cuối cùng chúng đành ôm hận rút 86.000 quân Minh về nước
Năm Mậu thân 1428, ông lên ngôi vua, tên thụy là Lê Thái tổ, đặt hiệu nước là Đại Việt, hiệu năm là Thuận Thiên, đô ở Đông Kinh (Hà Nội)
Công nghiệp đuổi giặc giữ nước của ông được toàn dân ghi ơn. Nhưng sau đó ông nỡ lòng giết hại các công thần như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, hầu hết các nhà chép sử đều phàn nàn chê trách
Năm Quý sửu 1433, ngày 22-8 âm lịch ông mất, hưởng dương 48 tuổi, ở ngôi 6 năm. Chôn tại Vĩnh Lăng (Lam Sơn)
|
|
|
|